Mandala đã có từ rất lâu trong lịch sử. Ở những năm đầu tiên của nền tôn giáo Ấn Độ, thậm chí cả nền tôn giáo Ấn – Âu và Tây Á, trong kinh Vệ Đà và nền văn học có liên quan, Mandala là một thuật ngữ để chỉ 1 chương, 1 tuyển tập thần chú, hoặc là những bài ca trong nghi lễ Vệ Đà. Vũ trụ được cho rằng bắt nguồn từ những bài thánh ca, âm thanh thiêng liêng đó chứa đựng những mô hình căn nguyên của chúng sinh và vạn vật. Vì thế có một ý nghĩa rõ ràng về mandala là kiểu mẫu của vũ trụ.
Mandala có nguồn gốc từ “Manda” có nghĩa là “tinh tuý” và hậu tố “la” sau này được thêm vào đúng nghĩa là “chứa đựng”. Từ đó Mandala được giải thích rõ ràng là “chứa đựng tinh tuý”. Hình ảnh Mandala biểu trưng cho thân và tâm của Đức Phật. Trong đạo Phật bí truyền, nguyên lý về mandala là sự hiển diện của đức Phật trong mình nhưng không nhất thiết có sự hiểu diện của những hóa thần. Những hóa thần có thể được biểu trưng là một bánh xe, cây cối hoặc một đồ trang sức hay bất kỳ hiện thân mang tính tượng trưng khác.
Sự hình thành:
Mandala ban đầu chỉ là 1 dấu chấm, nó đại diện cho sự vô hạn. Nó có nghĩa là 1 hạt giống, là điểm bắt đầu quan trọng nhất. Tâm điểm này đã thu hút tất cả năng lượng của vũ trụ bên ngoài, và trong vai trò là lực hút, năng lượng của người tín tâm được khai mở và cũng được hút vào trong đó. Vì vậy, Mandala là biểu trưng của tất cả không gian vũ trụ bên ngoài và bên trong. Mục đích là loại bỏ sự ngăn cách giữa vật thể và chủ thể.
Khi tạo nên Mandala, một đường thẳng sẽ xuất hiện từ tâm sau đó lần lượt các đường thẳng khác xuất hiện cho đến khi chúng giao nhau tạo thành các hình tam giác. Hình tròn bao ngoài biểu trưng cho ý thức đầy xung lực của sự khởi đầu, hình vuông biểu trưng cho thế giới vật chất hướng ra bốn phương, ngoài ra còn có ý nghĩa là 4 cánh cổng. Khu vực trung tâm là nơi an trụ của hoá thần. Trung tâm Mandala được coi là sự tinh tuý, và đường tròn được coi là sự bảo trì. Bởi vậy 1 bức tranh Mandala hoàn chỉnh có nghĩa là bảo trì sự tinh tuý.
Sự xây dựng :
Trước khi một vị tăng được phép đảm nhận công việc kiến lập mandala, vị sư đó phải trải qua một thời gian dài được đào tạo kỹ năng về nghệ thuật và khả năng ghi nhớ, học cách vẽ tất cả các loại biểu tượng khác nhau và nghiên cứu những tư tưởng triết học có liên quan. Ví dụ, tại tự viện Namgyal thì thời gian này kéo dài đến ba năm. Ở những giai đoạn đầu tiên, những vị tăng phải ngồi ở phần ngoài của chiếc Mandala cơ bản chưa được phủ sơn, phải luôn hướng mặt vào trung tâm Mandala. Đối với những Mandala cỡ lớn, khi những vị sư vẽ được một nửa, họ phải đứng trên sàn nhà và cúi người xuống để rắc màu.
Theo truyền thống thì một Mandala được phân chia thành bốn phần bằng nhau và mỗi vị sư chịu trách nhiệm một phần. Tại nơi những vị tăng đứng để rắc màu, một người phụ việc sẽ nối bốn phần lại với nhau. Những người phụ việc này làm việc mang tính hợp tác sẽ giúp bốn vị sư rắc màu vào bốn phần trong khi bốn vị sư phác những chi tiết khác.
Những vị sư sẽ nhớ lại tất cả những chi tiết của một mandala giống như phần trong chương trình đào tạo tại tự viện của họ. Một điều rất quan trọng phải nhớ là một mandala hoàn toàn dựa chính xác vào kinh điển. Khi kết thúc mỗi phần công việc, chư tăng hồi hướng bất cứ công đức tâm linh hoặc nghệ thuật được tích lũy được từ công việc này vì lợi ích của hết thảy hữu tình.
Sự thực hành này được thực hiện trong tất cả những tác phẩm nghệ thuật tâm linh. Một lý do chính chư tăng tập trung cực kỳ cao độ vào công việc bởi họ thực sự đang truyền đạt giáo lý của đức Phật. Mandala chứa đựng những lời giáo huấn của đức Phật để chứng đại giải thoát giác ngộ, động cơ thanh tịnh và sự hoàn hảo trong tác phẩm của họ tạo duyên cho những người chiêm ngưỡng được lợi ích cao nhất. Mỗi chi tiết trong 4 phần Mandala đều hướng mặt về trung tâm, vì thế mỗi chi tiết đó đều hướng mặt về nơi Bản Tôn an trụ trong Mandala. Sự phối cảnh của Chư Tăng và những người chiêm ngưỡng đứng xung quanh Mandala thì những chi tiết ở phần gần nhất với người chiêm ngưỡng dường như bị đảo ngược, trong khi đó những chi tiết trong phần xa nhất thì đúng chiều.
Nói chung mỗi vị Tăng chịu trách nhiệm phần của mình trong khi sơn rắc các phần cung điện vuông. Khi sơn những đường tròn đồng tâm, thì họ phải lần lượt chuyển động xung quanh Mandala. Họ đợi cho toàn bộ giai đoạn hoàn thành trước khi cùng nhau di chuyển ra ngoài.
Điều này đảm bảo cho sự cân bằng được duy trì và cả bốn phần của Mandala đều được hoàn tất cùng một lúc. Việc chuẩn bị để kiến lập một Mandala là sự nỗ lực về nghệ thuật nhưng đồng thời nó cũng là một hành động đầy tôn kính. Trong sự tôn kính này, những tư tưởng và sắc tướng được kiến lập, trong đó những trực giác sâu sắc nhất sẽ được biểu đạt là nghệ thuật tâm linh. Việc kiến lập Mandala thường được thiền định là một chuỗi trải nghiệm không gian mà tinh túy của nó có trước sự tồn tại, điều này có nghĩa là tư tưởng có trước sắc tướng.
Ở dạng phổ biến nhất, Mandala chính là hàng loạt vòng tròn đồng tâm. Mỗi Mandala đều có một Bản Tôn hóa thần riêng an trụ trong cấu trúc hình vuông được đặt đồng tâm bên trong những vòng tròn này. Hình vuông hoàn hảo của Mandala chỉ ra rằng không gian tuyệt đối của trí tuệ vốn không si ám. Cấu trúc hình vuông này có 4 cổng được vẽ rất tỷ mỷ biểu trưng cho sự hội tụ của Tứ Vô Lượng Tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả). Mỗi chiếc cổng được trang hoàng bằng những chiếc chuông, tràng hoa và các chi tiết trang trí khác. Hình vuông này xác định kiến trúc của Mandala được miêu tả là một cung điện hoặc một ngôi chùa có bốn mặt. Là một cung điện bởi vì nó là nơi an trụ của các Bản Tôn chính trong Mandala, còn là một ngôi chùa bởi chứa đựng tinh túy của Đức Phật Hàng loạt những đường tròn bao quanh cung điện trung tâm theo một cấu trúc mang tính biểu tượng mạnh mẽ.
Bắt đầu với những vòng tròn bên ngoài, bạn sẽ nhận thấy một vành lửa, thường được mô tả là một hình trang trí có đường cuộn độc đáo.
Vành lửa biểu trưng cho quá trình chuyển hóa mà những phàm tình chúng sinh phải trải qua trước khi nhập vào miền Tịnh Độ linh thiêng bên trong. Kế đến là một vòng Quyền Trượng Kim Cương, chỉ ra sự không thể phá hủy và kim cương giống như sự huy hoàng rực rỡ của các cảnh giới tâm linh của mandala. Trong đường tròn đồng tâm kế tiếp, đặc biệt là những mandala đặc trưng của những Bản Tôn phẫn nộ, bạn có thể nhìn thấy tám nghĩa địa được sắp xếp trên một băng rộng. Tám nghĩa địa này biểu trưng cho tám yếu tố của thức loài người trói buộc họ vào thế giới hiện tượng và vòng sinh tử. Sau cùng, tại trung tâm của mandala là tọa vị của Bản Tôn, nhìn vào trung tâm Bản Tôn của mandala thì sẽ biết được thuộc mandala nào. Người ta cho rằng mandala có được quyền lực này là do chính Bản Tôn trong mandala.
Sự phân loại :
Một cách chung nhất là Bản Tôn trung tâm có thể là một trong ba loại dưới đây:
Bản Tôn Hiền Hòa :
Một Bản Tôn hiền hòa biểu trưng cho sự tiếp cận tâm linh và tồn tại đặc biệt riêng của mình. Ví dụ, một hình ảnh Bồ Tát hay (Quán Thế Âm Bồ Tát) biểu trưng cho lòng từ là trọng tâm của trải nghiệm tâm linh; Bồ Tát Văn Thù thì lấy trí tuệ làm trọng tâm và Đức Kim Cương Thủ lại nhấn mạnh tới lòng dũng cảm và trí lực để tìm cầu trí tuệ thiêng liêng.
Bản Tôn phẫn nộ:
Những Bản Tôn phẫn nộ biểu trưng sự đấu tranh mạnh mẽ để vượt qua sự xa lánh ghét bỏ trong mỗi người. Bản Tôn là hiện thân của tất cả phiền não bên trong làm đen tối những tư tưởng, lời nói và hành động của chúng ta và ngăn cản chúng ta đạt đến mục đích của đạo Phật là sự toàn giác. Theo truyền thống thì những Bản Tôn phẫn nộ được hiểu là những khía cạnh của nguyên lý Từ Bi, chỉ đáng sợ đối với những người thấy họ như những thế lực bên ngoài. Khi nhận ra được những khía cạnh của tự thân và được thuần dưỡng với sự thực hành tâm linh thì họ nhận ra pháp tướng bên ngoài của các vị hóa thần này rất thanh tịnh và từ bi.
Bản Tôn tình ái :
Hình ảnh tình ái cho thấy quá trình tích hợp nằm ở trung tâm của Mandala. Nguyên tố nam nữ là không có gì, nhưng biểu tượng của vô số các cặp từ trái nghĩa (ví dụ như tình yêu và ghét, tốt và xấu, v.v…) là một trong những kinh nghiệm về sự tồn tại trần tục. Việc bắt đầu tìm cách ngăn chặn sự tha hóa của mình hoặc người kia, bằng cách chấp nhận và thưởng thức tất cả mọi thứ như một liền mạch, nối liền với nhau lĩnh vực kinh nghiệm. Hình ảnh tình ái cũng có thể được hiểu là một phép ẩn dụ cho sự giác ngộ, sự hài lòng, hạnh phúc, thống nhất, hoàn thiện.
Màu sắc:
Nếu hình thể là cốt yếu của mandala thì màu sắc cũng như vậy. Bốn phần của cung điện mandala được phân chia điển hình theo những hình tam giác cân của màu sắc, bao gồm bốn phần của 5 màu: Màu trắng, vàng, đỏ, xanh lục, xanh sẫm. Mỗi màu này đều có liên quan tới một trong năm đức Phật siêu việt, thêm nữa chúng cũng có liên quan tới năm ảo tưởng của bản chất con người. Những ảo tưởng này che chướng bản chất chân thật của chúng ta, nhưng thông qua việc thực hành tâm linh, chúng có thể chuyển hóa thành năm trí tuệ tương ứng với năm đức Phật siêu việt, cụ thể là:
* Màu trắng – Vairocana (Đức Tỳ Lư Giá Na Phật): Ảo tưởng của vô minh trở thành Pháp giới thể tính trí.
* Màu vàng – Ratnasambhava (Bảo sinh Phật): Ảo tưởng của ngã mạn chuyển thành Bình đẳng tính trí.
* Màu đỏ – Đức Adi đà: Si mê của chấp thủ trở thành diệu quan sát trí
* Màu xanh lục – (Bất Không thành tựu Phật): Si mê đố kỵ trở thành Thành sở tác trí.
* Màu xanh sẫm – (Đức Asuc Bệ): Si mê của sân giận trở thành Đại viên kính trí Mandala là phẩm vật cúng dường thiêng liêng.
Vật hiến tế thần thánh:
Bên cạnh việc trang trí và làm cho những ngôi chùa, và nơi ở trở nên thiêng liêng, đời sống sinh hoạt của người Tây Tạng, theo truyền thống mandala được cúng dường tới các bậc Thầy khi thỉnh cầu các bậc Thầy truyền trao giáo Pháp hay quán đỉnh – họ dùng mandala để biểu trưng cho toàn bộ vũ trụ, bày tỏ lòng tri ân cao nhất đối với giáo pháp tôn quý. Một lần trong khung cảnh hoang sơ của Ấn Độ, Đại Thành Tựu Giả Tilopa đã yêu cầu Naropa cúng dường mandala. Lúc bấy giờ ở đó không có sẵn chất liệu để kiến lập một mandala nên Naropa đã đi tiểu vào cát và tạo thành một mandala bằng cát ướt để làm phẩm vật cúng dường lên bậc Thầy của mình. Trong một dịp khác, Đức Naropa đã dùng máu, đầu và các chi của mình để tạo một mandala cúng dường. Bậc Thầy của Ngài đã hoan hỷ.
Kết luận:
Kết luận sự quán tưởng và cụ thể hóa khái niệm mandala là một trong những đóng góp có ý nghĩa nhất của Đạo Phật đối với tâm lý học tôn giáo. Mandala được coi là nơi linh thiêng, bằng chính sự hiển diện của mandala trên thế giới này đã nhắc nhở người chiêm ngưỡng về nội tại của tính thiêng liêng trong vũ trụ và tiềm năng của nó trong bản thân mỗi người Trong Đạo Phật mục đích của mandala là chấm dứt sự đau khổ của con người, để thành tựu giác ngộ, để đạt được chính kiến về Thực Tại. Mandala là một phương tiện để khám phá ra phẩm chất siêu việt thông qua sự chứng ngộ Mandala nơi tự tâm của mỗi người.