Vùng đất của 2 vua
Đất Thanh Hóa đã sinh cho đất nước hai vị hoàng đế anh hùng: Lê Đại Hành (Lê Hoàn) đánh thắng quân xâm lược Tống vào cuối thế kỷ 10 và Lê Thái Tổ (Lê Lợi) đánh thắng quân Minh vào đầu thế kỷ 15. Ở đây, chúng tôi đề cập đến một địa danh đã đi vào lịch sử là Lam Sơn, thuộc huyện Lương Giang, trấn Thanh Hóa (nay thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa), là nơi các nhà sử học, phong thủy học, thường nhắc đến với những chiêm nghiệm về địa lý, về nguyên khí hun đúc nên vùng địa linh nhân kiệt này, để lại những ghi chép đáng để chúng ta ngày nay suy ngẫm.
Di tích thành nhà Mạc ở Cao Bằng
Chẳng hạn, sử thần Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư cho biết, ông tổ ba đời của vua Lê Lợi tên húy là Hối, một hôm đi dạo chơi đến vùng núi Lam Sơn nhìn quang cảnh quanh đó và chợt thấy có đàn chim đông đúc đang ríu rít bay lượn quanh chân núi như thể núi Lam Sơn có một lực thu hút vô hình, có sức thu phục nhân tâm nhiều như chim đàn về tổ, bèn nói: “đây hẳn là chỗ đất tốt” và quyết định “dời nhà đến ở đấy”.
Những ghi chép trên của Ngô Sĩ Liên tuy khá vắn tắt, song cũng đã thông tin về một trong các yếu tố liên quan đến phong thủy của vùng đất phát vương. Tức vùng đất không thuộc về nơi “sơn cùng thủy tận”, cũng không phải nơi “tuyệt địa” vắng vẻ. Mà là nơi “chim tụ hội thành đàn” đông vui, ríu rít, là đất “tụ khí tàng phong” khác hẳn với những miền hung địa.
Hung địa theo thuật ngữ phong thủy là đất chu tước bi khốc (chim cất tiếng kêu sầu), hoặc đất bạch hổ hàm thi (con hổ đang ngậm xác chết trong miệng), hoặc xương long vô túc (rồng không có chân, rồng bị tật nguyền)… Như thế, Lam Sơn là đất cát tường, đất tụ nghĩa, đất xưng vương, mà người đứng lên đảm đương việc mở đầu nghiệp đế của nhà Lê là Lê Lợi.
Thật vậy, khi tổ nhà Lê là cụ Hối dời về ở Lam Sơn thì chỉ sau 3 năm đã gây thành sản nghiệp lớn và từ đó trở đi họ Lê làm quân trưởng một phương, trong nhà lúc nào cũng có tới hơn 1.000 tôi tớ, trải các đời sau sinh ra Lê Lợi với “thiên tư tuấn tú khác thường, thần sắc tinh anh kỳ vĩ, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, trên vai có nốt ruồi son, tiếng nói như chuông, dáng đi tựa rồng, bước tới như hổ, kẻ thức giả đều biết vua là bậc phi thường” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Theo truyền thuyết, nhà họ Lê được các thầy địa lý và các nhà sư thượng thừa về khoa phong thủy chỉ dẫn và báo mộng cho biết một huyệt đất phát vương (ở động Chiêu Nghi). Theo cụ Tả Ao, đất phát vương phải là đất hợp đủ các điều kiện được cụ diễn ca qua mấy câu lục bát sau đây: Ngũ tinh cách tú triều nguyên / Kim, mộc, thủy, hỏa bốn bên loan hoàn / Thổ tinh kết huyệt trung ương / Ấy đất sinh thánh sinh vương đời đời. Muốn hiểu các câu lục bát của cụ Tả Ao về đất phát vương nêu trên hẳn phải chú trọng, quan sát hình dáng của cuộc đất (theo ngũ hành) gồm: hình tròn thuộc kim tinh (con Kim), hình doi thuộc mộc tinh (con Mộc), hình vuông thuộc thổ tinh (con Thổ), hình nhọn thuộc hỏa tinh (con Hỏa), hình sóng thuộc thủy tinh (con Thủy).
Theo đó con Thổ phải ở vị trí chính giữa (kết huyệt trung ương) và các con Kim, Mộc, Hỏa, Thủy sẽ tuần tự vây quanh.
Thực hư về đất phát vương ở Chiêu Nghi như thế nào chưa bàn tới. Chỉ căn cứ trên chính sử, thì năm Lê Lợi lên 33 tuổi (Mậu tuất 1418) đã dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, trong khoảng 10 năm sau đó đuổi sạch quân Minh xâm lược, bắt sống tướng tá và 10 vạn viện binh của nhà Minh đều tha cả, không giết, đại định thiên hạ, lên ngôi hoàng đế vào ngày rằm tháng tư (Mậu Thân 1428) và lập tức xuống chiếu tha thuế cho dân chúng cả nước: “các thứ thuế như tô ruộng, vàng bạc, đầm phá, bãi dâu trong cả nước đều tha (không thu thuế) trong 2 năm”. Và ban bố nhiều điều lợi ích cho dân chúng.
Đó là cách tích đức của bậc đế vương, vừa tỏ lòng thương dân, vừa thuận ý trời (thuận thiên), vừa để phúc cho con cháu đời sau. Điều đó phù hợp hoàn toàn với lời giáo huấn lưu truyền từ lâu đời trong truyền thống nhân nghĩa và trong đời sống tinh thần của các thầy địa lý và các nhà phong thủy là “Tiên tích đức, hậu tầm long” – đại ý có nghĩa trước hết cần phải chứa đức, rồi sau đó hãy tìm long mạch… Phải chăng việc tích đức của Lê Lợi đã dẫn đến kết quả tốt đẹp là sự tồn tại của nhà Lê kéo dài từ thời Lê sơ với 10 đời, gồm 100 năm (1428 – 1527), đến thời Lê trung hưng với 16 đời, gồm 265 năm nữa (1533 – 1789) qua các triều Mạc, chúa Trịnh và chúa Nguyễn.
Đất ẩn náu của bậc đế vương
Trong khoảng thời gian đó, Mạc Đăng Dung ép vua Lê phải nhường ngôi cho mình, lập nên nhà Mạc từ năm 1527 đến 1592 thì sụp đổ. Trước khi sụp đổ, vua Mạc thứ năm là Mạc Mậu Hợp đã sai người đem lễ vật đến thăm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và xin hỏi về thế cuộc.
Trạng Trình chỉ đáp một câu ngắn gọn: “Cao Bằng tuy thiển, khả diên sổ thể” – nghĩa là đất Cao Bằng tuy là chật hẹp nhưng có thể giữ được về sau… Quả đúng như lời Trạng Trình nói, sau này khi nhà Mạc bị quân Trịnh đánh bật khỏi thành Thăng Long và bị truy đuổi tứ tán, thì con cháu nhà Mạc nghe theo lời chỉ dẫn của Trạng Trình đã chạy về cố thủ ở đất Cao Bằng và tồn tại thêm 96 năm nữa mới bị thôn tính, mất hẳn.
Theo các nhà phong thủy, những bậc thầy về địa lý, thì Cao Bằng là đất dung thân hiểm yếu, ẩn náu của bậc đế vương, nơi xuất phát của những cơn sấm sét về xuôi. Chính vì thế, từ thời Đường Ý Tông (Trung Quốc) khi Cao Biền xâm lăng nước ta đã cho xây thành Đại La (ở Thăng Long – Hà Nội) và thành Nà Lữ (ở Cao Bằng).
Về sau thành Nà Lữ được người Việt trấn giữ, trừ bùa yểm của Cao Biền. Đến nay di tích thành Nà Lữ vẫn còn ở làng Nà Lữ, xã Hoàng Tung, huyện Hòa An, có hình chữ nhật dài 800m, rộng 600m, xây bằng gạch và bằng đá tảng với 4 gò đất nổi mang tên: Long, Ly, Quy, Phượng. Gò Phượng nằm ở trung tâm. Khi nhà Mạc chạy về Cao Bằng đã chiếm thành Nà Lữ để đóng đô và xây thành đá trên núi để phòng ngự.
Cần ghi nhận thêm, đến thời hiện đại, Cao Bằng vẫn là mảnh đất “huyền thoại” về hai phương diện lịch sử và địa lý phong thủy. Vì Cao Bằng có hang Pắc Bó là nơi chủ tịch Hồ Chí Minh chọn làm căn cứ lãnh đạo cách mạng Việt Nam thời kỳ 1941 – 1945, có rừng Trần Hưng Đạo ở xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, là nơi đại tướng Võ Nguyên Giáp tuyên bố thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ngày 22.12.1944 – là tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày nay. Xem thế từ Cao Biền, đến thời Lê – Mạc, cho tới nay đất Cao Bằng vẫn là nơi “tụ khí tàng phong” hết sức cát tường theo cách nhìn phong thủy.
Theo Duyên Dáng Việt Nam – Bài: Giao Hưởng – Ảnh: Lưu Quang Phổ